Nguyễn Tri Phương – một đại thần dưới triều Nguyền

12/01/2024

Quân Pháp lăm le chiếm thành Hà Nội, loạn đảng trong nước nổi lên cướp phá như ong, Nguyễn Tri Phương – một đại thần dưới triều Nguyễn – được triều đình cử ra Bắc thống soái quân đội diệt giặc trong và bẻ gãy ý đồ xâm lược của giặc ngoài. Tuy nhiên, đội quân được trang bị chỉ những vũ khí thô sơ của Nguyễn Tri Phương nhanh chóng bị đội quân được trang bị nhiều vũ khí hiện đại của Pháp phá tan. Không chịu quỳ gối khom lưng trước giặc, Nguyễn Tri Phương tuyệt thực cho đến khi qua đời.

Quyết tâm giữ thành

Năm 1973, đô đốc Dupré của Pháp phái đại uý Francis Garnier mang một toán gồm 171 binh sĩ tinh nhuệ và hai pháo thuyền ra Bắc thực hiện ý đồ chiếm thành Hà Nội. Để khỏi hao đạn, tốn người và đỡ mang tiếng xấu, ban đầu, Garnier đưa ra nhiều yêu sách với mục đích khiến quan trấn thành Nguyễn Tri Phương và quân sĩ nhụt chí chiến đấu mà bỏ thành.

Nhưng những mánh khoé ấy không qua được mắt đại thần Nguyễn Tri Phương và càng không lay chuyển được quyết tâm sắt đá của ông. Nguyễn Tri Phương quyết tâm cùng các chiến binh chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để giữ bằng được thành Hà Nội – vòng thành có vị trí chiến lược quyết định sự thành bại trong cuộc chiến giữ đất khu vực phía Bắc Việt Nam.

Biết mưu kế dùng yêu sách của mình đã thất bại, rạng sáng ngày 20 tháng 11 năm 1873, Garnier bất ngờ đánh úp Hà thành.

Nắm vững địa thế thành Hà Nội, Garnier cho pháo thuyền luồn xuống hai cổng thành phía Nam, điều toán lính tinh nhuệ nhanh chóng vượt qua cầu tiếp cận cổng thành. Khi quân của Nguyễn Tri Phương trên thành phát hiện ra bắn xuống thì đã quá muộn – quân Pháp đã qua khỏi tầm bắn phòng thủ.

Trong lúc binh lính Pháp chuẩn bị tiếp cận cổng thành, pháo thuyền Pháp nã đạn liên tiếp phá vỡ cổng thành phía Nam. Hoả lực đạn pháo khiến thành luỹ Hà Nội rung chuyển ầm ầm. Quân binh trên thành không quen đối đầu với đạn pháo, cả kinh tháo chạy tán loạn ra cổng thành phía Tây. Thế trận thủ thành của Nguyễn Tri Phương bị Garnier phá vỡ hoàn toàn.

Chỉ sau một giờ, lá cờ nước Pháp đã ngạo nghễ tung bay trên thành Hà Nội. Một toán lính nhỏ của Pháp với sự trợ thủ của pháo thuyền hiện đại, có sức công phá lớn đã chiếm gọn thành Hà Nội chỉ trong chốc lát, bắt làm tù binh hơn 2000 quân lính triều đình Việt Nam.

Hệ thống sông, hào bao quanh thành Hà Nội phát huy sức mạnh phòng thủ trong suốt chiều dài hàng ngàn năm bỗng thành ra phản tác dụng – nó giúp pháo thuyền Pháp dễ dàng luồn sâu vào các ngả quanh thành và công phá thành ở bất cứ vị trí nào theo chiến lược của Garnier.

Tuẫn tiết theo thành

Trong trận chiến chớp nhoáng này, con trai Nguyễn Tri Phương là Phò mã Nguyễn Lâm do một dạ tử thủ không chịu tháo chạy nên trúng đạn chết ngay tại nơi giao tranh. Bản thân Nguyễn Tri Phương cũng bị thương nặng và rơi vào tay giặc.

Bắt được Nguyễn Tri Phương, quân Pháp tìm cách chạy chữa hòng mua chuộc ông. Chúng biết, nếu Nguyễn Tri Phương quy thuận, chúng sẽ dễ dàng đạt được mục đích chiếm lĩnh nước Nam hơn.

Đáp lại “thịnh tình” của quân Pháp, Nguyễn Tri Phương từ chối thẳng thừng yêu cầu đắp thuốc chữa trị vết thương của chúng, tuyệt thực tuẫn tiết để khẳng định tinh thần bất khuất của người Việt Nam trước giặc ngoại xâm. Lời đáp trả đanh thép của ông trước quân giặc càng thổi bùng lên tình thần “vì việc nghĩa” ở khắp nơi: “Bây giờ nếu ta chỉ lây lất mà sống, sao bằng thung dung chết về việc nghĩa”.

Không khuất phục được Nguyễn Tri Phương, quân Pháp vơ vét quan phục của ông để huênh hoang khoe chiến tích và để thị uy dân chúng. Hiện, bộ quan phục của vị quan Tổng đốc thành Hà Nội vẫn được trưng bày tại Bảo tàng Quân sự Pháp ở Les Invalides.

Tổng đốc Nguyễn Tri Phương qua đời sau khi tuyệt thực vài ngày, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho quan, dân, sĩ phu cả nước nói chung và Hà thành nói riêng. Niềm tiếc thương ấy được hun đúc thành ý chí quật cường, quyết tâm quét sạch bóng giặc ngoại xâm trên toàn cõi nước Nam.

Người dân Hà Nội càng sục sôi căm thù, nhất tề đứng lên khởi nghĩa chống Pháp. Chiếm thành Hà Nội được một năm, quân Pháp liên tục phải đối mặt với những cuộc nổi dậy của nhân dân và sĩ phu sở tại.

Trong cuộc nổi dậy ở Cầu Giấy do Tôn Thất Thuyết và Hoàng Tá Viêm dẫn đầu, quân Pháp trúng kế rơi vào ổ phục kích bị tiêu diệt gọn. Garnier cũng bị giết tại trận. Tàn binh quân Pháp lui về cố thủ trong thành.

Sau trận Cầu Giấy, Pháp buộc phải kí Hiệp ước ngày 05 tháng 01 năm 1874 trả lại thành Hà Nội và các tỉnh Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định và chỉ lập một cơ quan Công sứ ở Hải Phòng.

Tiếc thương vị Tổng đốc Hà thành trung nghĩa, nhân dân Hà Nội lập bàn thờ Nguyễn Tri Phương tại đền Trung Liệt trên gò Đống Đa.

Ngày nay, bên bệ thờ Nguyễn Tri Phương tại đền Trung Liệt vẫn còn lưu lại hai câu đối do người đương thời viết:

“Thử thành quách, thử giang sơn, bách chiến phong trần dư xích đạo
Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm sự vọng thanh thiên”

Nghĩa là:

“Kia thành quách, kia non sông, trăm trận phong trần còn thước đất
Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh

Tổng đốc Thành Hà Nội Nguyễn Tri Phương còn được lập đền thờ cùng quan Tổng đốc thành Hà Nội kế nhiệm Hoàng Diệu tại vọng lâu ngay phía trên cổng thành phía Bắc (Bắc Môn).

Để tưởng nhớ công lao của Nguyễn Tri Phương, chính quyền và nhân dân thủ đô Hà Nội quyết định lấy tên ông đặt tên cho con đường chạy qua thành cổ Hà Nội – con đường thuở xưa vẫn được người dân quen gọi là Đường trong thành, còn triều đình gọi là Đông hành cung.

Tuẫn tiết theo thành

Trong trận chiến chớp nhoáng này, con trai Nguyễn Tri Phương là Phò mã Nguyễn Lâm do một dạ tử thủ không chịu tháo chạy nên trúng đạn chết ngay tại nơi giao tranh. Bản thân Nguyễn Tri Phương cũng bị thương nặng và rơi vào tay giặc.

Bắt được Nguyễn Tri Phương, quân Pháp tìm cách chạy chữa hòng mua chuộc ông. Chúng biết, nếu Nguyễn Tri Phương quy thuận, chúng sẽ dễ dàng đạt được mục đích chiếm lĩnh nước Nam hơn.

Đáp lại “thịnh tình” của quân Pháp, Nguyễn Tri Phương từ chối thẳng thừng yêu cầu đắp thuốc chữa trị vết thương của chúng, tuyệt thực tuẫn tiết để khẳng định tinh thần bất khuất của người Việt Nam trước giặc ngoại xâm. Lời đáp trả đanh thép của ông trước quân giặc càng thổi bùng lên tình thần “vì việc nghĩa” ở khắp nơi: “Bây giờ nếu ta chỉ lây lất mà sống, sao bằng thung dung chết về việc nghĩa”.

Không khuất phục được Nguyễn Tri Phương, quân Pháp vơ vét quan phục của ông để huênh hoang khoe chiến tích và để thị uy dân chúng. Hiện, bộ quan phục của vị quan Tổng đốc thành Hà Nội vẫn được trưng bày tại Bảo tàng Quân sự Pháp ở Les Invalides.

Tổng đốc Nguyễn Tri Phương qua đời sau khi tuyệt thực vài ngày, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho quan, dân, sĩ phu cả nước nói chung và Hà thành nói riêng. Niềm tiếc thương ấy được hun đúc thành ý chí quật cường, quyết tâm quét sạch bóng giặc ngoại xâm trên toàn cõi nước Nam.

Người dân Hà Nội càng sục sôi căm thù, nhất tề đứng lên khởi nghĩa chống Pháp. Chiếm thành Hà Nội được một năm, quân Pháp liên tục phải đối mặt với những cuộc nổi dậy của nhân dân và sĩ phu sở tại.

Trong cuộc nổi dậy ở Cầu Giấy do Tôn Thất Thuyết và Hoàng Tá Viêm dẫn đầu, quân Pháp trúng kế rơi vào ổ phục kích bị tiêu diệt gọn. Garnier cũng bị giết tại trận. Tàn binh quân Pháp lui về cố thủ trong thành.

Sau trận Cầu Giấy, Pháp buộc phải kí Hiệp ước ngày 05 tháng 01 năm 1874 trả lại thành Hà Nội và các tỉnh Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định và chỉ lập một cơ quan Công sứ ở Hải Phòng.

Tiếc thương vị Tổng đốc Hà thành trung nghĩa, nhân dân Hà Nội lập bàn thờ Nguyễn Tri Phương tại đền Trung Liệt trên gò Đống Đa.

Ngày nay, bên bệ thờ Nguyễn Tri Phương tại đền Trung Liệt vẫn còn lưu lại hai câu đối do người đương thời viết:

“Thử thành quách, thử giang sơn, bách chiến phong trần dư xích đạo
Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm sự vọng thanh thiên”

Nghĩa là:

“Kia thành quách, kia non sông, trăm trận phong trần còn thước đất
Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh

Tổng đốc Thành Hà Nội Nguyễn Tri Phương còn được lập đền thờ cùng quan Tổng đốc thành Hà Nội kế nhiệm Hoàng Diệu tại vọng lâu ngay phía trên cổng thành phía Bắc (Bắc Môn).

Để tưởng nhớ công lao của Nguyễn Tri Phương, chính quyền và nhân dân thủ đô Hà Nội quyết định lấy tên ông đặt tên cho con đường chạy qua thành cổ Hà Nội – con đường thuở xưa vẫn được người dân quen gọi là Đường trong thành, còn triều đình gọi là Đông hành cung.

RELATED ARTICLES

HERITAGES OF VIETNAM